Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng, phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn miếu (chữ Hán: 文廟) - nơi thờ Khổng Tử, và Quốc tử giám (chữ Hán: 國子監) - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Khuê Văn các, Đại Thành và cổng Thái Học.[1] Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi quan trọng.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 5
Văn Miếu Quốc Tử Giám nằm ở trung tâm Hà Nội, là trường đại học lâu đời nhất của Việt Nam. Từ những ngày đầu tiên, ngôi trường này đã thu hút nhiều tài năng, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Ngày nay, Văn Miếu vẫn là điểm đến phổ biến cho du khách khi đến thăm Hà Nội, nhờ vào kiến trúc độc đáo và ấn tượng.
Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua nhiều biến cố của lịch sử, nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của dân tộc Hà Nội. Đó là một giá trị tinh thần cao quý đã được bảo tồn qua hàng trăm năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam của kinh thành Thăng Long thời Lí, hoạt động từ năm 1076 đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu bao gồm hai phần chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, nơi tôn vinh các triết gia và Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường. Dù qua bao biến cố, Văn Miếu vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính.
Ban đầu, Văn Miếu là nơi học của các hoàng tử, sau đó mở rộng ra cho các tài năng trong cả nước. Với diện tích 54.331 m2, bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ, Văn Miếu với những kiến trúc cổ kính là biểu tượng của sự thăng trầm của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử.
Khi tiến vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến được cổng chính, trên cổng chính có chữ Văn Miếu Môn. Bên ngoài cổng có hai con rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai là Khuê Văn Các được xây dựng vào năm 1805 với 2 tầng, 8 mái rộng lớn. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba là từ gác Khuê Văn đến Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ với tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn...
Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải...
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu từ gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.
Cho đến ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là điểm đến của nhiều du khách, không chỉ nhớ về cội nguồn mà còn để khấn bái và tìm hiểu lịch sử của cha ông. Nơi đây cũng là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 1
Văn Miếu Quốc Tử Giám, một trong những di tích lịch sử quan trọng nhất của Việt Nam, đã được xây dựng từ thời Lý Thánh Tông năm 1070. Đây không chỉ là nơi tổ chức học tập mà còn là biểu tượng của sự tài trí và kiến thức của nhân dân. Với sự phát triển qua nhiều thế kỷ, đây vẫn là một điểm đến quan trọng thu hút đông đảo du khách khi ghé thăm Hà Nội ngày nay.
“Năm canh tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ 2 đời Lý Thánh Tông, vào mùa thu tháng 8, Văn Miếu được xây dựng và tượng Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất Thập Nhị Hiền được đắp và vẽ. Hoàng thái tử đến đây học tập.” Từ những nền tảng ấy, Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua nhiều thăng trầm và tiếp tục phát triển, đặc biệt từ năm 13/7/1999 khi thành phố Hà Nội khởi công xây dựng nhà thái học trong khuôn viên của di tích. Đây đã là nơi sản sinh ra nhiều tài năng cho đất nước. Với hàng trăm bia ghi tên các Tiến sĩ được xây dựng, Văn Miếu Quốc Tử Giám không chỉ là nơi tôn vinh những nhân tài mà còn là biểu tượng của sự cao cả và văn minh.
Di sản lịch sử của Văn Miếu bao gồm diện tích 54.331m2, bao gồm Hồ Văn, vườn giám và nội tự, được bao quanh bởi tường gạch vồ. Phía trước cổng lớn là tứ trụ, hai bên tứ trụ có hai bia “Hạ mã”. Nội tự được chia thành năm khu vực, mỗi khu vực được sắp xếp để đặt bia và thờ phụng các học giả tài ba khắp đất nước. Khi du khách thăm khu bia đá, họ có thể tìm thấy tên của nhiều danh nhân từng được nhắc đến trong sách sử Việt Nam như: nhà sử học Ngô Sĩ Liên - Tiến sĩ năm 1442 đã soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư hay nhà bác học Lê Quý Đôn,…
Thiên hạ có thể mở rộng hiểu biết về sự nghiệp của các sử thần Việt Nam và mối quan hệ đa phương giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á thông qua các tấm bia. Đây được coi là những tác phẩm quý báu, góp phần làm nên truyền thống văn hóa và giáo dục của Việt Nam. Đến nay, hầu hết các hoa văn và văn tự trên bia đá vẫn rõ nét. Phong cách viết và trang trí của mỗi bức bia, đầu rùa đều mang dấu ấn thời đại tạo nên chúng.
Trong khuôn viên của Quốc Tử Giám, có một chiếc chuông Bích Ung được đúc bởi Nguyễn Nghiêm vào năm 1768. Đây là một chiếc chuông lớn, có nhiều giá trị lịch sử. Mặt trong của chuông có hai chữ Thọ xương, mặt ngoài được khắc bài mình viết theo kiểu chữ lệ về công dụng của chiếc chuông.
Văn Miếu Quốc Tử Giám luôn coi trọng “nhân tài đối với quốc gia là quan trọng”, và “phải có đào tạo mới có nhân tài”. Vì vậy, đây là nơi sinh ra nhiều tài năng được tôn trọng qua thời kỳ nhà Lê, Mạc, Nguyễn… Điều này tạo nên một truyền thống của người Việt, trước khi tham gia thi cử, họ thường tìm đến đây để cầu may mắn và tinh thần, để đạt được thành tích tốt trong các cuộc thi.
Một sự kiện quan trọng về di tích này là việc UNESCO công nhận bia tiến sĩ của Văn Miếu - Quốc Tử Giám là di sản tư liệu thế giới. Điều này là nguồn tự hào của người Việt Nam và của lịch sử phát triển của loài người nói chung.